Thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Tiểu ban Văn kiện, ngày 21/10/2025, Tổ Biên tập Văn kiện Đại hội XIV cung cấp "Báo cáo một số vấn đề mới, quan trọng trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng" làm tài liệu tham khảo cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình thảo luận, góp ý các Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã công bố lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân.
Trân trọng giới thiệu Toàn văn Báo cáo một số vấn đề mới, quan trọng trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng như sau:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại, có ý nghĩa quyết định đối với tương lai phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Trong bối cảnh thế giới đang có những thay đổi nhanh chóng, sâu sắc, khó lường; trong nước đang triển khai mạnh mẽ các quyết sách chiến lược rất quan trọng, các văn kiện trình Đại hội XIV không chỉ tổng kết chặng đường phát triển 5 năm qua, xác định mục tiêu, nhiệm vụ trong 5 năm tới mà còn định hình tư duy chiến lược, tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI. Các Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV với kết cấu, nội dung có nhiều đổi mới đã thể hiện tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá khách quan tình hình, trên cơ sở đó đề ra hệ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu phát triển đất nước, các định hướng, nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp đột phá để phát triển nhanh và bền vững đất nước, thể hiện khát vọng vươn mình mạnh mẽ của cả dân tộc trong kỷ nguyên mới.
Báo cáo này được xây dựng nhằm tập trung nêu bật các vấn đề mới, quan trọng trong các Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. Qua đó, giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân nghiên cứu, hiểu đúng tinh thần Dự thảo Văn kiện, đóng góp hiệu quả vào quá trình thảo luận, hoàn thiện các văn kiện, đồng thời lan toả tinh thần đổi mới, khát vọng phát triển và quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ đề của Đại hội lần thứ XIV của Đảng là:
Việc xác định chủ đề Đại hội nêu trên thể hiện sự thống nhất tư tưởng và hành động, củng cố niềm tin, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng và sức mạnh của toàn dân tộc, tiếp tục khơi dậy khát vọng xây dựng và phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, sánh vai với các cường quốc năm châu trong kỷ nguyên mới
.
Việc xác định chủ đề Đại hội dựa trên một số căn cứ, yêu cầu chủ yếu như sau:
So với các kỳ Đại hội gần đây, điểm mới của Báo cáo chính trị lần này là sự tích hợp nội dung 3 văn kiện, gồm:
Việc tích hợp này thể hiện tinh thần tiếp tục đổi mới về cách xây dựng văn kiện, xuất phát từ thực tiễn mới của đất nước, sự phát triển nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện của Đảng, bảo đảm sự nhất quán về nội dung; ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Trên cơ sở dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, Bộ Chính trị đã chỉ đạo ban hành các nghị quyết mới là các quyết sách chiến lược quan trọng làm cơ sở, động lực, đột phá cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và được tiếp tục chắt lọc, cập nhật, phát triển trong Dự thảo Báo cáo chính trị để:
Sự kết nối logic từ khung thể chế đến động lực kinh tế, công nghệ, quản trị hiện đại và phát triển con người đã tạo nên một hệ sinh thái phát triển nhanh, bền vững, không chỉ vạch rõ lộ trình mà còn huy động sức mạnh tổng hợp toàn xã hội, hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045.
Việc tổng kết nhiệm kỳ Đại hội lần này đã chỉ rõ và khái quát toàn diện những kết quả quan trọng, nổi bật đạt được, đặc biệt là các đột phá chiến lược ở cuối nhiệm kỳ. Nổi bật nhất là việc sắp xếp tổ chức bộ máy và xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp - một quyết định lịch sử, cách mạng, giúp tinh gọn đầu mối, rõ trách nhiệm, mở rộng không gian phát triển, tăng cường hiệu lực quản trị, điều hành từ tỉnh đến cơ sở.
Quá trình thực hiện cho thấy rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị gắn với đôn đốc, kiểm tra, giám sát thường xuyên có ý nghĩa quyết định, đặc biệt là cần phân công rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ tiến độ, rõ kết quả và có cơ chế giám sát thường xuyên. Nhờ đó, tâm lý "thành tích hình thức" bị đẩy lùi, thay vào đó là tinh thần hướng mạnh về kết quả thực chất, vừa "chạy" vừa "xếp hàng" đúng tiến độ và có hiệu quả.
Bài học kinh nghiệm quan trọng rút ra về tổ chức thực hiện là: Phải quán triệt nguyên tắc "tập trung, công khai, trách nhiệm" ngay từ giai đoạn xây dựng đề án; đồng thời kết hợp linh hoạt, khéo léo giữa xử lý kỷ luật và khuyến khích sáng tạo. Cơ chế kiểm tra, đánh giá liên tục đã góp phần khắc phục thực chất điểm yếu cố hữu là "tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu".
Những kinh nghiệm ấy không chỉ củng cố niềm tin vào khả năng đổi mới mạnh mẽ của hệ thống chính trị, mà còn đặt nền móng vững chắc cho những bước phát triển mới của nhiệm kỳ tới.
Quan điểm chỉ đạo thứ nhất trong Dự thảo Báo cáo chính trị viết:
"Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới"
.
Với quan điểm này, lần đầu tiên Đảng ta xác định "lý luận về đường lối đổi mới" là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng.
Việc bổ sung "lý luận về đường lối đổi mới" vào nền tảng tư tưởng của Đảng là một bước phát triển có ý nghĩa lịch sử, thể hiện sự trưởng thành về tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực tiễn và bản lĩnh tự đổi mới của Đảng; cho thấy Đảng không giáo điều, không rập khuôn, mà luôn biết kế thừa, bổ sung và phát triển sáng tạo, gắn lý luận với thực tiễn, làm giàu thêm kho tàng lý luận - tư tưởng của cách mạng Việt Nam. Lý luận về đường lối đổi mới là sự vận dụng và phát triển sáng tạo, cụ thể hoá các nguyên tắc, các nguyên lý phổ quát của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn 40 năm đổi mới ở Việt Nam, thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự đột phá lý luận cơ bản của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Lý luận về đường lối đổi mới là tổng thể các quan điểm, tầm nhìn, định hướng phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Nhân dân là trung tâm, là chủ thể; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với 3 trụ cột nền tảng:
Theo đó, lý luận về đường lối đổi mới trở thành một bộ phận cấu thành của nền tảng tư tưởng, tiếp tục dẫn dắt đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới của dân tộc.
Việc bổ sung "lý luận về đường lối đổi mới" vào nền tảng tư tưởng của Đảng còn là minh chứng cho thấy sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện, sáng suốt của Đảng kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở ra khả năng phát triển năng động, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại; là ngọn đuốc soi đường tiếp tục dẫn dắt chúng ta thực hiện thành công khát vọng, tầm nhìn và các định hướng chiến lược, lập nên những kỳ tích phát triển mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Quan điểm chỉ đạo thứ hai trong Dự thảo Báo cáo chính trị viết:
"Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm...", như vậy Trung ương thống nhất bổ sung "bảo vệ môi trường" cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ "trung tâm"
.
Việc bổ sung "bảo vệ môi trường" cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trung tâm trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đánh dấu một bước phát triển nhận thức sâu sắc và vững chắc về phát triển bền vững dựa trên 3 trụ cột:
Đây không còn là lời khẳng định hình thức mà là cam kết chiến lược, đặt sinh thái môi trường làm thước đo trong mỗi chính sách phát triển.
Trong Cương lĩnh 1991 và các Nghị quyết Đại hội VII, VIII,... XIII, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được đề cập mới chỉ ở nguyên tắc, còn ưu tiên nguồn lực vẫn tập trung vào thúc đẩy phát triển kinh tế. Môi trường thường chỉ được xem là hệ quả cần khắc phục sau khi thúc đẩy kinh tế, chưa được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong mỗi bước đi, trong từng chính sách phát triển. Điểm mới căn bản ở đây là đã xác định bảo vệ môi trường là trụ cột để xác lập mô hình tăng trưởng mới. Điều này đồng nghĩa với việc không đánh đổi lợi ích ngắn hạn để bảo đảm lợi ích dài hạn cho quốc gia và các thế hệ tương lai.
Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã cam kết phát triển kinh tế xanh và cam kết trung hoà các-bon vào năm 2050, đang tạo ra áp lực đồng thời cũng là cơ hội mới cho phát triển nhanh, bền vững đất nước. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã thể hiện Việt Nam không chỉ thực thi các hiệp định, mà còn thu hút vốn xanh, tín chỉ các-bon và công nghệ sạch; thông qua chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế tuần hoàn và đẩy mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Việc áp dụng cơ chế định giá chi phí môi trường, "thuế sinh thái", tín chỉ các-bon và khung pháp lý chặt chẽ sẽ tạo đòn bẩy mạnh mẽ cho doanh nghiệp đầu tư xanh, đồng thời bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các thành phần kinh tế; khẳng định vai trò tiên phong, trách nhiệm của ta trước cộng đồng thế giới.
Về thể chế, Nhà nước đã và đang hoàn thiện pháp luật về môi trường, tăng cường kiểm tra và xử lý nghiêm vi phạm. Cơ chế phân cấp mạnh mẽ giúp chính quyền địa phương chủ động khai thác tài nguyên bền vững, kết hợp huy động tài chính xanh qua trái phiếu, quỹ bảo vệ môi trường và hợp tác công - tư. Doanh nghiệp xanh được hỗ trợ thuế, tín dụng ưu đãi và chuyển giao công nghệ để giảm chi phí. Hệ thống giám sát thông minh, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo sẽ hỗ trợ dự báo rủi ro, tối ưu hoá sử dụng tài nguyên. Kinh tế tuần hoàn thúc đẩy tái chế, giảm phát thải và gia tăng giá trị sản xuất... Thách thức lớn nhất cần vượt qua chính là việc loại bỏ tư duy phát triển ngắn hạn, phá vỡ rào cản tâm lý, tạo tiền đề cho hành động lâu dài. Nhấn mạnh vai trò của chuyển đổi số và kinh tế tuần hoàn trong bảo vệ môi trường, đào tạo nhân lực xanh, thúc đẩy hợp tác giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp, cùng chiến lược truyền thông chính sách mạnh mẽ để nâng cao nhận thức cộng đồng. Sự đồng thuận xã hội và cam kết chính trị quyết liệt sẽ là chìa khoá mở ra hướng phát triển đột phá cho Việt Nam trong phát triển nhanh và bền vững đất nước....
CÒN NỮA...
